loading...
Hướng dẫn mua bán Bitcoin ==> Bấm vào đây
Mua gì cũng được giảm giá, hoàn tiền ==> Bấm vào đây
Đề cương ôn THPT Quốc gia ngữ văn|PHẦN THƠ LỚP 12: TIẾNG HÁT CON TÀU( Chế Lan Viên)Xem điểm chuẩn
Mua gì cũng được giảm giá, hoàn tiền ==> Bấm vào đây
Đề cương ôn THPT Quốc gia ngữ văn|PHẦN THƠ LỚP 12: TIẾNG HÁT CON TÀU( Chế Lan Viên)
- Tác giả:
Chế Lan Viên là bút danh của nhà thơ Phan Ngọc Hoan (1920-1989). Trước 1945. Chế Lan Viên nổi tiếng với tập thơ “Điêu tàn” (“Thung lũng đau thương”). Sau 1945, ông nổi tiếng với tập “Ánh sáng và phù sa” (“cánh đồng vui”)
Phong cách: Thơ Chế Lan Viên giàu chất suy tưởng, mang vẻ đẹp trí tuệ, hình ảnh luôn mới lạ, ngôn ngữ sắc sảo
II. Bài thơ
1. Xuất xứ: Tiếng hát con tàu viết trong thời kỳ miền Bắc xây dựng XHCN, đặc biệt năm 1958 có đợt kêu gọi đồng bào miền xuôi lên vùng núi Tây Bắc đi xây dựng vùng kinh tế mới. Tác phẩm được rút ra từ tập thơ “Ánh sáng và phù sa”.
2. Nhan đề: sự thật những năm Chế Lan Viên viết bài thơ này thì chưa có đường tàu cũng như chưa có con tàu nào lên Tây Bắc. Hình tượng Tiếng hát con tàu ở đây là một hình ảnh lãng mạn, mang ý nghĩa biểu tượng: biểu tượng cho những cuộc lên đường, biểu tượng cho khát vọng đi xa vượt ra khỏi những gì chật hẹp tù túng, quẩn quanh để đến với cuộc sống lớn của nhân dân, để đến với nơi khơi nguồn cho cảm hứng nghệ thuật và cũng là để về với tâm hồn mình
3. Lời đề từ:
- Lời đề từ là một khổ thơ đầy ắp biểu tượng. Tây Bắc không chỉ là một hình ảnh cụ thể mà Tây Bắc còn là biểu tượng của đất nước, của Tổ quốc, có nghĩa là nơi nào trên Tổ quốc của chúng ta cần đến nhưng bàn tay lao động, những bàn tay kiến thiết thì ở đó có “lòng ta”. “ Khi Tổ quốc bốn bề lên tiếng hát” thì đó là lúc “Lòng ta hóa những con tàu”. Đặc biệt hơn nữa, đó là sự gắn kết giữa “Lòng ta”, “tâm hồn ta” với Tổ quốc. Tổ quốc không ở đâu xa mà ở ngay tâm hồn ta: “Tâm hồn ta là Tây Bắc chứ còn đâu”. Như vậy “Con tàu” chính là lòng ta, tâm hồn ta mang tất cả sức mạnh, mang niềm vui, mang khát vọng, mang cống hiến để lên đường theo tiếng gọi Tổ quốc. Cũng như vậy, bốn câu thơ đề từ là nguồn cảm hứng cho toàn bộ bài thơ đó là cảm hứng lên đường, cảm hứng hòa nhập vào cuộc đời rộng lớn của nhân dân, từ đó khơi nguồn cảm hứng sáng tạo cho thơ ca và nghệ thuật
4. Cảm xúc chủ đạo- mạch cảm xúc
a. Hai khổ thơ đầu: lời giục giã lên đường
- Hai khổ thơ đầu là tâm trạng và nỗi niềm băn khoăn của thi nhân về chuyện đi hoặc ở lại. Đi tức là đến với vùng đất Tây Bắc nhiều khó khăn, gian khổ. Ở chính là ở lại Hà Nội (cuộc sống đầy đủ). Tâm trạng ngại đi xa, ngại khó khăn gian khổ là một sự thật, không chỉ riêng nhà thơ mà ở rất nhiều tâm trạng con người sau ngày hòa bình lập lại, khổ thơ chính là cuộc đấu tranh tư tưởng
- Và để tô đậm tâm trạng và nỗi niềm băn khoăn ấy, nhà thơ đã sử dụng hàng loạt câu hỏi tu từ với âm điệu thơ đầy ám ảnh, giục giã. Đây chính là những câu hỏi đầy hối thúc, đầy giục giã làm lay động tâm hồn người nghệ sĩ. Nếu như chọn “giữ trời Hà Nội” thì đó là cuộc sống ích kỷ, hưởng thụ, chỉ sống riêng cho bản thân mình, đó chắc chắn là cuộc sống tù túng chật hẹp. Nhà thơ cũng tự phê bình chính bản thân mình qua phép đối lập, đối lập giữa đất nước mênh mông và sự nhỏ hẹp của đời anh. Và chắc chắn sống trong cuộc đời như vậy thì không bao giờ tìm được cảm hứng cho văn nghệ: “Chẳng có thơ đâu giữa lòng đóng khép”. Người nghệ sĩ sẽ có thể tìm được cảm hứng văn nghệ khi đi về phía nhân dân, về phía sáng tạo “tâm hồn anh chờ gặp anh trên kia”. “Trên kia” chính là Tây Bắc, là Tổ quốc, là nhân dân, là nguồn cảm hứng mãnh liệt, dồi dào cho sức sống của nghệ thuật. Đó là nơi “gió ngàn đang rú gọi” đang mời gọi giục giã nhà thơ lên đường.
b. Hai khổ thơ tiếp theo là khát vọng trở về với Tây Bắc- trở về với những kỉ niệm kháng chiến
- Nhà thơ đã viết bằng niềm tự hào mãnh liệt, thể hiện qua cách gọi Tây Bắc, cách dùng từ - nhà thơ gọi Tây Bắc là xứ thiêng liêng, là vùng đất của anh hùng bởi Tây Bắc là nơi biết bao xương máu con người đã đổ xuống, là vùng đất khai sinh ra nguồn cảm hứng cho thơ ca nghệ thuật trong đó có “Tiếng hát con tàu” của Chế Lan Viên. Nhà thơ còn tự hào gọi Tây Bắc là ngọn lửa, ngọn lửa truyền thống yêu nước, vẻ đẹp quật cường. Ngọn lửa ấy không chỉ cháy trong mười năm quá khứ mà còn cháy sáng trong tương lai “Ngàn năm sau còn đủ sức soi đường”. Đặc biệt Chế Lan Viên còn tự hào gọi Tây Bắc là “Mẹ yêu thương”. Cách gọi ấy cho thấy nhận thức sâu sắc của Chế Lan Viên về cội nguồn đất nước của dân tộc. Nhà thơ viết hoa chữ “Mẹ” đó là mẹ Tổ quốc, là mẹ của đất nước, là mẹ của cội nguồn cảm hứng nghệ thuật
c. Bốn khổ thơ kế tiếp: Trở về với Tây Bắc là trở về với nhân dân, cội nguồn của yêu thương. Đó là sự trở về để đền ơn đáp nghĩa, để sống trong lòng của nhân dân.
- Với nhà thơ Chế Lan Viên thì việc gặp lại nhân dân là một niềm vui lớn, khao khát lớn, hạnh phúc lớn được thể hiện qua bốn câu thơ. Nhà thơ sử dụng thủ pháp nghệ thuật so sánh qua hình ảnh “nai về suối cũ”, “cỏ đón giêng hai”, “chim én gặp mùa”, “đứa trẻ thơ đói lòng gặp sữa”. Cách so sánh này vừa quen lại vừa lạ, thể hiện niềm hạnh phúc của nhà thơ khi tìm về nguồn cội bởi cuộc đời đẹp nhất là khi gắn bó với Tổ quốc, với nhân dân. Cách so sánh làm đồng hiện ân nghĩa thủy chung ở đời. Niềm vui, niềm hạnh phúc được trở về với nhân dân được thể hiện qua so sánh với thế giới của thiên nhiên, gặp lại nhân dân mà vui như “cỏ đón giêng hai”, thế giới con người vui như ký ức tuổi thơ “đói lòng gặp dòng sữa ngọt lành”, vui như khi “gặp cánh tay đưa nôi cho giấc ngủ trẻ thơ”. Đặc biệt nhà thơ lại sử dụng những cặp từ hình ảnh đi đôi với nhau, cái này là sự sống cho cái kia và ngược lại.
- Nhân dân chính là những người đã hi sinh, những người đã san sẻ cùng với bộ đội trong cuộc kháng chiến gian lao.
+ Đó chính là anh du kích. Nhà thơ đã gọi là “anh con” như thể máu mủ ruột rà và nhà thơ đặc biệt nhấn mạnh một chi tiết “chiếc áo nâu”. Đó chính là hình ảnh của sự nghèo khổ một đời vá rách nhưng chiếc áo đó là chiếc áo nâu của ân tình ân nghĩa “Đêm cuối cùng anh gửi lại cho con”.Chiếc áo nâu đó được truyền lại cho con như truyền lại sự sống và tinh thần chiến đấu.
+ Nhân dân còn là hình ảnh của người em liên lạc giàu lòng dũng cảm, gan dạ, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ mà cách mạng giao phó: “Sáng bản Na, chiều em qua bản Bắc/Mười năm tròn chưa mất một phong thư”.
+ Tập trung tình cảm nhiều nhất đó chính là hình ảnh người mẹ TB. Hình ảnh lửa hồng soi tóc bạc là hiện thân của ngọn lửa yêu thương, ngọn lửa chiếu sáng tóc bạc của mẹ– người đã dành rất nhiều tình cảm với nhà thơ mặc dù không phải là tình máu mủ ruột thịt nhưng người mẹ đó luôn xem cán bộ như là con đẻ. Chính vì vậy“trọn đời con nhớ mãi ơn nuôi”. Nhà thơ đã sử dụng rất nhiều những từ ngữ chỉ sự gắn bó “một mùa dài”, “trọn đời”, “nhớ mãi”,… Đó chính là những từ ngữ thể hiện quan hệ gắn bó không thể tách rời giữa cái cá nhân và cái cộng đồng.
=>Bốn khổ thơ trên: Khổ một tập trung thể hiện niềm vui của nhà thơ khi trở về với nhân dân. Ba khổ thơ tiếp theo cụ thể hóa hình ảnh nhân dân: người mẹ, người anh, người em. Những hình ảnh này gắn kết trong không khí gia đình chung là nhân dân và Tổ quốc.
- 2 khổ thơ tiếp: những suy ngẫm về mối quan hệ con người với Tây Bắc, Đất nước, quê hương.
- Khổ thơ đầu: cô đúc như một triết lý châm ngôn về quy luật tình cảm con người.
Câu thơ đầu của khổ: nhà thơ sử dụng dấu phẩy ở giữa tạo thế đăng đối cân xứng hài hòa, cùng đó là điệp từ “nhớ” làm cho ta khi đọc lên tưởng chừng như một bài hát. Đó chính là nỗi nhớ vừa thực vừa ảo, nỗi nhớ da diết khôn nguôi mang một màu sắc sương khói hoài niệm. Đằng sau những câu thơ như câu hát ấy, nhà thơ tự hỏi lòng mình “Nơi nao qua lòng lại chẳng yêu thương?”, hỏi cũng là tự đo lòng mình, đo yêu thương tình nghĩa. Chính nỗi nhớ, tình yêu thương đã khiến “ Đất” vô tri hóa tâm hồn. Đất là cụ thể hóa của vật chất nhưng trong hai câu thơ này, “đất” đã được chuyển hóa thành dạng cao nhất của tinh thần, thành tâm hồn. Một sự chuyển hóa kì diệu.
-Nhà thơ đột ngột chuyển sang một rung cảm và suy tưởng khác về tình yêu đất lạ. Nhà thơ lại tiếp tực sử dụng một loạt những so sánh để diễn tả tình yêu và rung cảm trong lòng mình, đặc biệt mượn quy luật về tự nhiên để diễn tả tình yêu. Mùa đông gắn liền với rét mướt, nhắc tới mùa đông con người không thể quên cái rét, nhắc tới tình yêu không thể thiếu nỗi nhớ anh và em. Chữ“bỗng” trong câu “Anh bỗng nhớ em như đông về nhớ rét” thể hiện tình cảm chân thật, nóng bỏng, đột ngột tràn ngập trong lòng thi nhân. Câu thơ kết lại thêm một lần ta lại thấy sự chuyển hóa của các vật chất thành sự sống của tâm hồn qua câu thơ: “Tình yêu làm đất lạ hóa quê hương”. Đây là sự chuyển hóa kì diệu bởi chỉ có ân nghĩa thì đất lạ mới có thể hóa tâm hồn được.
- Bốn khổ thơ cuối: là khúc hát lên đường
Mở đầu đoạn thơ là câu hỏi “Đất nước gọi ta hay lòng ta gọi?” thể hiện sự giục giã lên đường trong tâm hồn nhà thơ. Câu hỏi đó cũng chính là vẻ đẹp của cái tôi cá nhân, cái tôi của nhà văn bước ra khỏi cuộc đời chật chội tù hẹp của đời mình để đến với cuộc sống mới, cuộc sống của nhân dân. Những từ ngữ như “tình em đang mong,tình mẹ đang chờ”, “mắt ta thèm” đã làm cho đoạn thơ một nhịp điệu dồn dập, âm điệu rộn rang đầy phấn chấn, say mê. Đặc biệt là cách nói : “Rẽ người mà đi, vịn tay mà đến”. “Mùa nhân dân” cho thấy niềm vui và khát vọng mạnh liệt của tác giả khi tìm về với cội nguồn bởi cội nguồn chính là sự sống, là nguồn thơ, nguồn cảm hứng mãnh liệt. Khổ thơ cuối khép lại bằng hình ảnh mang tính biểu tượng thể hiện tâm hình tình yêu của nhà thơ với Tây Bắc, với “mùa nhân dân”
- Đến giây phút này thì con tàu mới thực sự trở thành khát vọng sống, khát vọng lên đường đến Tây Bắc, hết lòng vì Tổ quốc “Khi Tổ quốc bốn bề lên tiếng hát”. Bây giờ con tàu không “đói vành trăng” nữa mà trở thành “con tàu mộng tưởng” của ước mơ, khát vọng. Đặc biệt, con tàu “mỗi đêm khuya không uống một vầng trăng” tượng trưng cho vẻ đẹp Tây Bắc và nhân dân. Đó cũng là vầng trăng của thi ca.“Mặt hồng em” là ẩn dụ nói về hiện thực đời sống thể hiện sự thành công, bội thu của Tây Bắc với những thành công ban đầu trong xây dựng và đổi mới. Đồng thời đó cũng chính là mùa bội thu của thi ca nghệ thuật. Khổ thơ cuối thể hiện một niềm tin về lòng yêu Tổ quốc và nhân dân trong chính bản thân mình. Đây cũng chính là vẻ đẹp của cái tôi nhân dân mang khát vọng lớn, sống hòa mình với cộng đồng
- Đặc sắc NT:
+ Xây dựng hình ảnh trong tương quan đối lập
+ giàu tính biểu tượng
+ Nghệ thuật so sánh từng chum mới mẻ độc đáo
+ Giọng thơ triết luận, lấp lánh vẻ đẹp trí tuệ.
HƯỚNG DẪN LUYỆN TẬP
Câu 1: Ý nghĩa nhan đề lời đề từ ( Xem phần II 2,3)
Câu 2: ( 5 điểm) Phân tích, cảm nhận các đoạn thơ ( xem phần II phần 4)
Câu 3: Bình luận chất chính luận – trữ tình trong bài thơ Tiếng hát con tàu của Chế lan Viên
Đề cương ôn THPT Quốc gia ngữ văn|PHẦN THƠ LỚP 12: TIẾNG HÁT CON TÀU( Chế Lan Viên)
loading...
0 nhận xét Blogger 0 Facebook
Post a Comment